Rất nhiều bạn sẽ nói “Đọc sách có cái gì mà cũng phải
bày đặt kỹ năng?”. Xin thưa ngay là có đấy. Đọc sách là một công đoạn của quá
trình nhận thức, của việc học, vậy sao lại không cần kỹ năng? Trong bài post
này tôi sẽ lưu ý những điểm quan trọng trong đọc sách, sách gì cũng vậy.
1. Hãy đọc cho kỹ
về tác giả.
Tác giả là người truyền tải kiến thức của loài người
cho chúng ta, là người làm việc tóm tắt, đúc kết rất nhiều các quá trình tìm
tòi, nghiên cứu, thử nghiệm, các kết quả trong các phép thử-rồi sai, rồi lại thử
của con người về một vấn đề nào đó và viết thành sách. Nhiều người cứ hay dè bỉu
“Toàn sách vở”, rằng “Cái gã này toàn là sách vở” (với ý thiếu thực tế), tuy
nhiên sách vở nào có lỗi gì, chỉ có thái độ khinh thị với kiến thức (mà có một
thời xuất phát từ sự hiểu sai rất ấu trĩ về lao động của trí thức, chỉ đề cao
lao động của công nông – cái gì mà Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ)
hoặc do người đọc sách chưa thấu hiểu và ứng dụng sai mà dẫn đến chuyện dè bỉu
trên. Nói một cách công bằng, “sách vở” là kết tinh các kiến thức của con người,
chỉ có ta đọc, hiểu và ứng dụng ra sao mà thôi, sách vở không có lỗi, chỉ có
công. Thế còn tác giả? Hiển nhiên, tác giả càng uyên bác thì khả năng bị sai của
họ càng thấp và do vậy kiến thức mà họ truyền bá qua sách mà họ viết càng đáng
tin. Vì vậy chúng ta cần tìm hiểu thấu đáo nhất đến mức có thể về tác giả. Thường
thì những điều cần thiết này được viết trong mục Lời giới thiệu của người dịch
hay của nhà xuất bản (thường là mời một số học giả cùng lĩnh vực viết), cái mà
rất nhiều bạn có thói quen xấu bỏ qua không đọc những dòng, những trang quan trọng
đó.
Tất nhiên, cũng không tránh khỏi có những người, có
học vị và chức vụ KH rất cao mà vẫn sai, vì lý do này hay lý do khác. Một thí dụ
rất điển hình mà tôi thường lấy ra để dạy các con mình là một nhà khoa học Bắc
Triều Tiên (tên thì tôi đã quên vì đã quá lâu rồi, lại là tên nước ngoài rất
khó nhớ). Ông này là một chuyên gia y học của Bắc Triều Tiên, vào cuối thập kỷ
1950, đầu 1960′s, ông này công bố đã tìm ra các tế bào kinh lạc (huyệt). Tôi đã
được đọc cuốn “Về hệ kinh lạc” do nxb. Thể dục thể thao của ta ấn hành đầu những
năm 1960. Bấy giờ tuyên truyền của bắc Triều Tiên về cái này ghê gớm lắm. Tuy
nhiên sau đó, các thí nghiệm làm lại của các nhà y học Xô Viết đã bác bỏ cái gọi
là “Hệ kinh lạc” của ông này. Ở Bắc Triều Tiên, bẽ bàng vì chuyện này, Kim Nhật
Thành hạ ngục nhà giả khoa học đó và cho thu hồi mọi tài liệu “giả kim thuật” của
ông ta.
Kể về chuyện này để chúng ta thấy rằng không phải cứ
cái gì viết thành sách rồi cũng sẽ chắc chắn đúng. Chúng ta cần phải thận trọng,
hãy chỉ tin những cái ta được chứng minh một cách có luận lý. Dầu sao, việc đọc
và ghi nhớ về tác giả cũng là rất quan trọng, nó giúp chúng ta có cơ sở để tin
hơn.
Tác dụng phụ: Nhớ tên tác giả và lĩnh vực mà tác giả
trình bày cho phép chúng ta tìm kiếm cuốn sách dễ hơn trên mạng, trong thư viện
và dễ dàng liên hệ với các vấn đề tương đồng khi đọc các sách khác.
2. Hãy ghi nhớ
năm xuất bản và nhà xuất bản.
Trước tiên điều này giúp ích chúng ta tìm kiếm lại
cuốn sách tốt hơn trong thư viện hay trên mạng vì cách phân loại sách cho tra cứu
trong thư viện thường theo năm xuất bản (và cả theo các tiêu chí khác nữa). Sau
nữa, nó giúp cho chúng ta ghi chú trong các trích dẫn sau này một cách chi tiết,
điều mà những người làm khoa học nghiêm túc luôn tuân thủ.
Hơn nữa, có nhiều loại nhà xuất bản, có loại nhà xuất
bản hạng hai hạng ba song có những nhà xuất bản có thể xem là hạng nhất. Các
nhà xuất bản hạng nhất làm sách rất chọn lọc, công phu và ít lỗi, do vậy nâng
cao khả năng đáng tin cậy của các tri thức có trong đó. Năm xuất bản cũng vậy,
tri thức của loài người ngày càng phong phú và hiển nhiên sách bản in năm 2000
thì phải chứa đựng nhiều tri thức mới hơn sách in những năm trước đó lâu về
cùng một vấn đề, thậm chí nhiều vấn đề đã được phát hiện và sửa sai, tổng hợp lại
một cách hệ thống hơn… Về sách kỹ thuật chuyên ngành viễn thông, các nhà sách
sau là có tiếng trên thế giới: 1. Mỹ: Prentice Hall, Wiley & Sons,
McGraw-Hill; 2. Âu châu: Pentech Press, Artech House (song sách bán đắt thấy mồ),
Plenum Press; (xin các bạn bổ sung thêm, tôi nhất thời trong lúc tập trung suy
nghĩ viết bài post này có thể không liệt kê được đầy đủ). 3. Nga: izdatyelstvo
Naiuki i Tyekhnyiki (nxb. KH&KT Moscow), izdatyelstvo Sviazi (nxb. thông
tin). Sách văn học tiếng Việt thì tôi chỉ tín nhiệm có mỗi nhà xuất bản Văn học,
Hà nội, các nxb. khác làm sách như con tườu, kể cả nxb. Tp HCM mà anh rể thứ
hai của tôi là giám đốc.
3. Hãy tập cách
ghi chép những điều cốt yếu căn bản nhất của cuốn sách.
Trong mỗi cuốn sách bao giờ cũng có những đoạn lột tả
được vấn đề cơ bản nhất mà cuốn sách trình bày, thường là trong phần Preface
hay Introduction. Nhiệm vụ của người đọc sách là phải tìm cho ra được những
dòng quý báu đó và ghi nhớ. Từng chương của mỗi cuốn sách cũng có những lập luận
quan trọng và chúng ta rất cần tìm cho được và ghi chép. Tất cả các ghi chép đó
sẽ hình thành khung sườn của lập luận chính nhất/cuốn sách. Đôi khi, cái sườn ấy
thể hiện ngay ở phần mục lục, cái mà các SV ta thường lười và bỏ qua, chỉ nhăm
nhắm đi tìm cái mình cần trong cuốn sách.
Về ghi chép. Hồi còn là SV, tôi thường về Hà Nội mỗi
khi được đi tranh thủ và thường ở nhà chị cả mình. Trong tủ sách vô cùng phong
phú của anh chị tôi (chị tôi là phóng viên kỳ cựu từ ngày mới hòa bình của báo
Lao động, sau là phó phòng Văn học hiện đại của nxb. Văn học, chuyên biên tập
các tác phẩm văn học hiện đại của VN và sách nước ngoài dịch, anh rể cả của tôi
là sĩ quan cao cấp quân đội, vốn đang là SV ĐH canh nông của Pháp năm 1945 thì
tham gia bộ đội đi kháng chiến) tôi tìm thấy một cuốn “Các nguyên lý của chủ
nghĩa Lê nin – các bài giảng của đồng chí Xít-ta-lin tại trường ĐH Xít-véc-lốp”
(tôi ghi nguyên như cách phiên âm thời bấy giờ), nxb. Sự Thật, 1951 (in trong rừng
Việt Bắc thời 9 năm kháng chiến chống Pháp) của anh rể tôi. Tôi đọc ngốn ngấu
song có lẽ nó là khá nặng nhọc với hiểu biết chính trị còn non nớt lúc đó của
mình (các vấn đề với phú nông – kulakh Nga – chẳng hạn thì tôi chỉ biết vẻn vẹn
qua Đất Vỡ Hoang của Mikhail Solokhov mà thôi). Điều hay mà tôi học được từ đây
là trong cuốn sách đó anh tôi đã dùng bút gạch dưới các dòng quan trọng nhất,
các luận điểm rất cơ bản, chủ chốt của cả cuốn sách, cái mà tôi cũng cố thử làm
song xem lại thì thấy các gạch đít của mình chả quan trọng gì cả và chả hình
thành nên cái lõi của cả cuốn sách, thật không làm sao so được với các ghi chú
của anh tôi. Ah, thế có nghĩa là mình chưa biết cách tìm ra những điều cốt yếu
cơ bản nhất của một cuốn sách. Từ đó, tôi rất cố gắng tập tìm kiếm và đánh dấu
những đoạn hay nhất, cốt yếu nhất trong sách và tập ghi tóm tắt những cái quan
trọng nhất của từng cuốn sách mình đã đọc. Cứ từng tí một, không nản lòng (hồi
đó làm gì có bút đánh dấu màu như ngày nay). Dần dần nó thành thói quen khi đọc
sách. Tôi bây giờ chịu không thể đọc sách được nếu không có một cuốn sổ/vở và
cây bút trên tay để sẵn sàng ghi chép những điều cơ bản quý báu. Chỉ sau 2 năm
tập như thế, năm thứ 4 ĐH tôi đã có thể tóm tắt toàn bộ Kinh Tân Ước trong một
tập giấy mỏng cắt ra từ 2 tờ giấy mà ngày xưa hay gọi là giấy năm hào hai theo
giá của tập giấy, đóng lại thành một cuốn sổ bỏ túi mỏng dính, trong đó ghi
chép những điểm quan trọng bậc nhất trong giáo lý mà Giê-su đã truyền dạy các học
trò của mình, à hà, cuối năm thứ 5, khi ôn thi chính trị quốc gia, trong cuộc
tranh luận về vấn đề giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm với trung tá
trưởng bộ môn triết của trường tôi mà tôi đóng vai một giáo sĩ, tôi đã làm cho
ông giáo phát cáu lên vì không sao bẻ được các lập luận của tôi, bẽ mặt với các
học viên khác trong lớp. Năm về nước, do quá nặng (tôi đã vứt bỏ hết quần áo và
đồ dùng cá nhân để lấy trọng lượng được mang cho sách, chỉ mặc nhõn một bộ trên
người với một cái palto thùng thình nhét đầy sách bỏ túi và đĩa mềm mà tôi kiếm
được bên Hung, trong đó tôi rất quý cuốn New Testament bằng tiếng Anh, bản mới
do hội truyền bá cơ đốc quốc tế ở Mỹ ấn hành) nên tôi đã bỏ lại chồng giấy vở gần
một thước các ghi chép trong gần 6 năm đọc sách của mình bên Hung về mọi lĩnh vực
kỹ thuật, tôn giáo, lịch sử, ngôn ngữ học, giải phẫu sinh lý người (y-sinh),
kinh tế, chính trị… giờ tiếc hùi hụi. May là một số ghi chép tóm tắt của tôi
khi đọc các tạp chí mà tôi có bản photo thì tôi thường ghi ngay vào trang báo
hay ở mặt sau nên vẫn còn (có lần đưa cho ông giáo xem lại một bài báo, cụ rất
thích thú cách ghi chép tóm tắt của tôi và hỏi xem tôi được ai dạy cho cái kỹ
năng ấy và rất vui khi biết tôi đã tự rèn luyện được từ những năm ĐH).
Chính nhờ cách đọc sách và ghi chép ấy nên đọc sách
gì tôi cũng chỉ cố đọc và ghi nhớ lấy những điểm lớn, chủ yếu và cốt lõi. Thế mới
có thể nhớ được nhiều (về vấn đề rèn luyện trí nhớ trong đọc sách, tôi sẽ viết ở
một mục khác sau).
Kinh nghiệm đọc
sách của cô PDA.
Dạ, cũng thỏa mãn thêm “chút xíu” rồi bác ạ . Cảm ơn
bác Bình nhiều và mong đón đọc các phần tiếp theo của bác. Cháu cũng đồng ý với
bạn smiles là nếu bác biết cuốn sách nào hay thì giới thiệu để nếu có cơ hội
thì mọi người tìm đọc. Lúc nào bác tranh thủ được thì túc tắc giới thiệu cho
chúng cháu. Về chủ đề thì ngoài sách chuyên môn thì sách văn học, tình yêu, cuộc
sống, sức khỏe, thậm chí cả sách lịch sử … đều tốt cả ạ . Ngày xưa đi học, cháu
thấy mình cũng thuộc vào loại chăm chỉ, lịch sử địa lý … học thuộc làu làu.
Nhưng rồi sau một thời gian thì bị “bốc hơi” hết sạch, nhiều lúc giật mình thấy
sao mình là người VN mà dốt lịch sử VN đến thế (cũng buồn!). Thậm chí có đôi lần
cháu “bức bách” quá lên mạng tìm đọc lịch sử VN, thấy nó không hề khô khan và
chán như hồi học phổ thông. Kiến thức địa lý trên thực tế cũng rất hay, sao hồi
học phổ thông toàn học cái gì không không, thi xong là trong đầu chả còn đọng lại
được bao nhiêu cả.
Về việc vừa đọc sách vừa ghi chép lại các ý chính
cháu cũng thường xuyên làm, nhưng chỉ với các sách chuyên ngành, bài báo hay
bài giảng trên lớp. Cái này cháu học mấy bạn học cùng hồi ĐH. Hồi đó cháu thấy
các bạn Pháp sau mỗi môn học ai cũng có 2,3 trang A4 tóm tắt lại các kiến thức
chính, công thức quan trọng, gạch chân, tô xanh tô đỏ rất cẩn thận (nhiều bạn
còn có cả “colour code” của riêng mình!). Đến lúc cần các bạn ấy chỉ việc lôi
“bảo bối” ra tra hay đọc lướt nhanh để ôn bài (ko phải để quay cóp ). Cháu cũng
bắt chước theo và thấy rất hiệu quả, nhất là khi vào học chuyên ngành, có học kỳ
phải thi đến 12 môn trong 1 tuần thì việc có mấy tờ “bảo bối” này vào những
ngày nước sôi lửa bỏng rất có ích. Cái công ngồi tóm tắt lại được mấy trang này
cũng là 1 lần ôn bài, từ 1 cuốn bài giảng dày rút lại 2,3 trang với đủ thông
tin quan trọng ko phải là việc dễ, đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ (tóm tắt ngắn
khó hơn “tóm tắt dài”). Hơn nữa, mấy trang này là do mình viết nên lúc đọc lại
rất dễ hiểu. Sau này trong lúc làm PhD, cháu cũng hay ghi chép khi đọc các bài
báo vì nếu ko ghi lại thì cháu thấy rất buồn ngủ khi đọc những bài tương đối
dài và phức tạp. Còn các sách khác thì cháu chưa ghi chép bao giờ vì thường đọc
trong tư thế giải trí.
Hôm qua cháu xem TV, thấy bên Pháp (và có thể nhiều
nước khác) bây giờ có cái nghề là “đi du lịch miễn phí, ngủ KS miễn phí”. Lý do
là hiện nay trên internet chào mời các tour du lịch trong mơ nhiều quá nên
khách hàng không biết đâu mà đánh giá và đôi khi đến nơi thì vỡ mộng về chất lượng.
Thế nên một vài công ty tạo ra cái nghề này để đánh giá các KS, các kỳ nghỉ và
được đông đảo khách hàng đón nhận. Nay quay lại chuyện sách, không biết có cái
nghề “đọc sách miễn phí” rồi đánh giá chưa nhỉ? Trên thực tế thì ở VN hiện nay
sách rất tràn lan, một vài lần mua sách về đọc một lượt mà thấy như mình bị lừa
tiền. Tất nhiên là việc đánh giá 1 cuốn sách thì khó hơn việc đánh giá 1 khách
sạn, ko phải ai cũng làm được.
4. Hãy đọc từng
chương, đọc lướt trước, đọc cẩn thận và ghi chép sau.
Một cuốn sách thường gồm nhiều chương. Đấy là cấu
trúc thường thấy, thể hiện tác giả định trình bày các vấn đề của cuốn sách
thành những phần lớn, tương đối độc lập theo một logic như thế nào. Vấn đề là
ta sẽ đọc chúng ra sao.
Tuỳ theo yêu cầu của từng người và thời gian mà người
ấy có, hãy đọc từng chương theo phần kiến thức mà ta cần tìm kiếm hoặc đọc cả
cuốn. Từng chương một trong mỗi cuốn sách đều có những đoạn rất quý báu vạch ra
những điều cơ bản nhất mà chương đó đề cập đến, việc đọc lướt qua thường không
mấy khi cho chúng ta cơ hội tìm thấy ngay những đoạn ấy, bù lại, chúng cho ta
hình dung được cấu trúc và logic của các vấn đề được sắp xếp (thường là có/đầy
dụng ý của tác giả) như thế nào. Sau khi nắm được cái logic ấy, việc đọc kỹ sẽ
bắt đầu dễ dàng hơn nhiều. Trong quá trình đọc kỹ cuốn sách hay đọc kỹ từng
chương, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ về các lập luận, các chi tiết và phải tìm cho
ra được những điểm mấu chốt của từng chương và ghi chép chúng một cách vắn tắt,
tập trung vào những ý chính nhất. Các kết luận sau những lập luận gian nan và
có khi tẻ nhạt ấy, nhiều khi chỉ là một vài dòng mà ta có thể ghi chú được. Hãy
đóng khung các kết luận ấy bởi bạn vừa xong một quá trình nhận thức sơ bộ: xem
xét từ cách đặt vấn đề (cách nhìn sự vật của tác giả), các bước logic của phân
tích và chứng minh, các ý nghĩa và các thí dụ minh hoạ và bạn đã đi đến (cùng với
tác giả) các kết luận. Cái đó đáng ghi nhớ nhất bởi sau này, bạn có thể quên một
vài bước trong cách phân tích hay chứng minh, quên đi một số bước của quá trình
dẫn dắt, bạn vẫn cứ yên tâm được với các kết luận đó (bởi bạn đã thực sự, với sự
giúp đỡ của tác giả, chứng minh, thấu hiểu vấn đề của chương) để có thể áp dụng
chúng cho các tình huống thực tế trong cuộc sống.
5. Hãy liên hệ với
các kiến thức khác để có được cái nhìn đa chiều và củng cố hệ thống kiến thức,
tăng khả năng nhớ lâu.
Một cách đọc rất kém hiệu quả là chỉ đọc mà không
suy nghĩ, cái này cũng giống như việc bạn vào giờ học ở nhà, bạn ngồi rất
nghiêm chỉnh trước bàn học với đầy ứ sách vở song lại không mấy chú tâm, hoặc
là nản lòng vì không hiểu bài, lại chỉ nắn nót tô tô vẽ vẽ cái gì đó hoặc giả
thay vì phải đọc và hiểu cho được vấn đề cần đọc/học, bạn lại lướt web và phí
thời gian vào việc đọc những cái không mấy cần thiết – song hỡi ôi, thường là
giật gân, chủ yếu do cung cách giật tít của những người đã quẳng những cái đó
lên Internet. Tuy nhiên, là nói thế, rằng cần phải suy nghĩ, bắt não hoạt động,
song ta bắt não phải làm việc gì? Ta sẽ phải bắt não chăm chú vào từng bước của
lập luận, từng bước từng ý của các phân tích và chứng minh. Thêm vào đó, một
cái không kém phần quan trọng là bắt não lục lọi lại những hiểu biết đã có của
mình để so sánh và tìm những điểm tương đồng giữa những kiến thức mới đã tích
luỹ với những kiến thức đã có. Tại sao lại phải như vậy?
Thứ nhất, kiến
thức của loài người về các lĩnh vực khác nhau có rất nhiều điểm tương đồng, nhiều
cách giải quyết của lĩnh vực này lại bắt ngồn từ cách giải quyết của lĩnh vực
khác tưởng như hết sức xa vời.
Ta có thể kể ra đây một vài thí dụ khá tiêu biểu.
Trong hệ thống ghép kênh, việc ghép kênh không (hay cận) đồng bộ tỏ ra không hiệu
quả với các cấp ghép ngày càng cao, nảy sinh từ yêu cầu tăng dung lượng do có
quá nhiều dịch vụ mới như tự động hoá văn phòng, Internet, các dịch vụ thanh
toán điện tử… hệ thống truyền dẫn với cấp ghép cao, do vậy, sẽ phải là một hệ
thống ghép kênh đồng bộ nhằm bảo toàn hiệu quả sử dụng đường truyền. Vấn đề là
sẽ ghép theo kiểu gì. Những chuyên viên NC của CCITT lúc bấy giờ đã mượn ý tưởng
Container của giao thông vận tải (vận tải hàng hải). Trước đây, trong vận tải
đường biển người ta thường xếp hàng hoá lên tàu theo kiểu đánh đống, cái này chồng
lên cái khác sao cho tận dụng hết dung tích của khoang chứa hàng. Cái này lại
làm giảm hiệu quả bốc dỡ tại các cảng trung chuyển, khi người ta phải hạ hàng
này xuống và bốc xếp lên các hàng mới, khiến các tàu nằm chờ ở cảng lâu hơn. Vấn
đề đã được xem xét lại theo cách nghĩ: vấn đề là ta cần gì trong vận tải, dung
tích hay tải trọng? A, hoá ra nếu ta xếp các hàng hoá trong các container và bố
trí các container này một cách hợp lý ta vẫn có thể vận chuyển hàng hoá không
kém (dẫu từng container có thể không đầy) bởi cuối cùng thì cái đáng quan tâm
là tải trọng của tàu là bao nhiêu chứ không phải dung tích khoang chứa hàng là
mấy. Việc bốc dỡ trở nên đơn giản hơn nhiều và nhờ vậy hiệu quả vận tải tăng
lên. Ô, thế thì trong ghép kênh cũng y như vậy. Việc ghép các luồng tin nhánh
theo lối ghép kênh vẫn dùng trong ghép kênh cận đồng bộ sẽ làm cho việc
tách/ghép tại các trạm xen/rẽ trung gian trở nên cồng kềnh, trong khi nếu ta
đóng các luồng nhánh (bây giờ ta có khái niệm mới hẳn hoi là các payload – hơ
hơ, trước năm 1989 tôi đố bác nào tra tự điển xuất bản trước đó ra được cái từ
payload là cái gì nhé) như các tải tin thành các container và sắp các container
ấy một cách lớp lang nhờ các POH (nó như cái nhãn container dán trên thành từng
container, trỏ rằng trong đó chứa hàng gì, chủ hàng là ai, từ đâu và đi đâu),
giỗ thẳng hàng chúng trên con tàu (khung STM-N) bằng các con trỏ (pointer) thì
việc ghép và tách chúng trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Một thí dụ khác nữa có
thể kể ra ở đây là các thuật toán điều khiển lưu lượng trong mạng viễn thông có
tương đồng không với các thuật toán điều khiển giao thông nhằm giải quyết vấn đề
tắc nghẽn? Ngay cả cái tưởng chừng vô cùng đơn giản với mọi người học viễn
thông là khuếch đại thì xét cho cùng khi chúng ta làm việc với các bộ khuếch đại
tuyến tính, chúng ta làm việc với một phép nhân: tín hiệu lối ra là tích của
tín hiệu lối vào với hệ số khuếch đại K của bộ khuếch đại, hay ta làm việc với
một hệ số tỷ lệ: K bằng tỷ số giữa tín hiệu đầu ra với tín hiệu lối vào. Ô hô,
thế thì có khác gì so với cái bập bênh ngoài công viên không? Tỷ lệ giữa hai trọng
lượng cơ thể trên hai đầu bập bênh khi cân bằng đúng bằng tỷ lệ K giữa hai độ
dài cánh tay đòn mà hai đứa trẻ cần ngồi cho cân. À, ra chúng (KĐ trong điện tử-viễn
thông và bập bênh trong công viên) có chung thuật toán toán học.
Thứ hai, đó là
do bản chất của hệ thống kiến thức và bản chất của trí nhớ.
Các kiến thức của một con người được tích luỹ dần
theo năm tháng với quá trình nhận thức diễn ra liên tục và phát triển có hệ thống
nhờ việc giáo dục trong trường cũng như các hoạt động học tập nói chung tuân thủ
theo một tiến trình khá ngặt nghèo. Trong quá trình học suốt đời như vậy, các
khu vực trong bộ nhớ của con người được điền đầy dần và liên kết với nhau nhờ
các liên kết giữa các nơ-ron thần kinh ở các khu vực lân cận nhau. Việc liên tưởng,
so sánh giữa các vấn đề tương đồng sẽ tạo nên các liên kết, dẫn đến hệ thống kiến
thức có thể được sắp xếp tốt hơn và nhất là hình thành nhiều cách sắp xếp/hệ thống
hoá kiến thức tốt hơn, cho phép người ta truy cập và vận dụng các kiến thức đó
đa dạng hơn, nhanh hơn.
Về mặt trí nhớ, trí nhớ của con người hình thành từ
các kích thích điện hoá tuần hoàn và kéo dài, dẫn đến các nơ-ron thần kinh chịu
trách nhiệm nhớ chuyển vào trạng thái kích thích (điện thế ở vỏ nơ-ron cao
hơn). Các kích thích điện hoá như thế truyền từ nơ-ron này sang nơ-ron khác qua
các axon, tới các synaps, truyền sang nơ-ron lân cận, tạo nên các vùng gồm các
nơ-ron lưu giữ một thông tin nào đó. Việc liên tưởng, so sánh giữa các vấn đề
tương đồng của các lĩnh vực khác nhau sẽ tạo các liên kết giữa các vùng khác
nhau của bộ nhớ. Nhờ vậy, nếu sau một thời gian dài không có kích thích, một
vùng nào đó các nơ-ron chuyển sang trạng thái mỏi khiến chúng ta có thể quên một
thông tin nào đó thì nhờ vào việc truy cập vào các vùng khác, sẽ tạo nên các
kích thích thông qua các liên kết ngang đã có, nhắc cho vùng nơ-ron mỏi có thể
trở lại trạng thái kích thích và nhờ đó trí nhớ về thông tin đã quên có thể
khôi phục lại được. Do vậy, việc liên tưởng, so sánh các vấn đề tương đồng giữa
các lĩnh vực có vẻ như xa vời sẽ giúp cho chúng ta nhớ các vấn đề đã đọc/học được
bền hơn.
Thứ ba, đối với
những người làm công tác giảng dạy, việc liên tưởng, so sánh giữa các vấn đề
tương đồng sẽ có thể giúp người học dễ hiểu hơn.
Đây là một kỹ năng góp phần làm cho một ông thày được
học trò đánh giá là giảng hay hay có kỹ năng sư phạm tốt. Một vài thí dụ cho
chuyện này. Khi giảng cho SV về sơ đồ khối của một hệ thống thông tin di động
TDMA, có một khối tạo các chuỗi training ở phía phát, trong sách của Raymond
Steele (figure 1.40, tr. 68) người ta sử dụng từ sounding sequence, ở phía thu,
burst thông tin (tập các bit trong một Time Slot) được phân kênh, các chuỗi
sounding này được đưa vào khối hàm mờ hay hàm mơ hồ (ambiguity function) để tạo
ra thông tin điều khiển equalizer system. Giảng đến phần này, nhất là với các
SV chưa hay học chưa kỹ phần equalizer trong môn Thông tin số, thường có một sự
khó hiểu (cứ từ trên bục giảng mà nhòm xuống là thấy nhiều khuôn mặt lộ vẻ ngơ
ngơ ngay thôi chứ có gì đâu). Tôi thường lấy thí dụ về một người mù chống gậy
đi, cái gậy khua khoắng ấy tạo nên các tiếng động khác nhau đồng thời cảm giác
cứng mềm do va chạm của gậy với mặt đường khác nhau sẽ cho người mù ấy đánh giá
được đường đi sắp tới để điều chỉnh bước chân. Cái chuỗi âm thanh lộc cộc ấy có
chức năng như cái chuỗi sounding kia (và có lẽ chính do cái nghĩa này mà các
tác giả đã dùng từ sounding chứ không dùng từ training) và nhờ việc thu cái chuỗi
đó mà cái khối hàm mờ sẽ hoạt động kiểu như não của ông mù nọ để đánh giá tình
trạng kênh và đưa ra quyết định điều chỉnh equalizer system, y như não ông mù
đưa ra quyết định điều chỉnh bước chân vậy. Cái nguyên lý dò (đường) và điều chỉnh
hành vi ấy có ở khắp nơi, trong việc phát các sóng siêu âm và thu tín hiệu phản
xạ từ đáy biển để điều khiển trong hoạt động của các tàu ngầm; trong việc
estimation of the channel để triệt nhiễu, để thích nghi mã hay điều chế… để
tính toán bộ hệ số các taps của một equalizer dựa trên tapped-delay line… hay
trong chính đời sống chính trị khi người ta làm các thăm dò công chúng để đề ra
những chính sách, giải thích như thế là các khuôn mặt ngơ ngác ấy giãn ra tức
thì. Thí dụ thứ hai mà tôi gặp là giảng về interleaving. Hô hô, nói qua một tí
là ai cũng hiểu ngay nó là cái gì và mọi khuôn mặt ngồi dưới đều nở nang và hân
hoan. Khốn nỗi, tôi thì lại hay hỏi thêm buộc người học phải động não. Hỏi rằng,
trong hệ thống GSM thì người ta thực hiện interleaving đến 2 lần cơ, nhờ đó nếu
một burst bị mất thì chỉ có 12.5% số bit của mỗi một burst sau deinterleaving bị
mất thôi và nhờ đó mã xoắn 1/2 kết hợp với mã khối có thể khôi phục được với
méo tín hiệu không đáng kể. Nếu vậy tại sao người ta lại không cứ tăng tớn mãi
số lần interleaving lên cho ngon? Hú, nói chung là đến một nửa số khuôn mặt lại
chuyển ngay về ngơ ngác. Thường thì sau khi giảng giải cái được cái mất của
interleaving và interleaving nhiều lần (các khuôn mặt lại giãn ra sung sướng
nhé), tôi lại hỏi bộp rằng nếu ta tăng số lần interleaving lên vô hạn thì nó ra
cái gì. Thì lỗi trên kênh sau deinterleaving lại cụm lại chứ san mãi ra sao?
Cái này có giống với cái việc ta zip một file nào đó lại, rồi lại zip lần nữa,
à, dung lượng của file lại nhỏ thêm tí nữa chứ gì? Nếu cứ zip mãi như thế thì
dung lượng file có xuống bằng không được không? Không hả, bởi thế hoá ra zip lại
làm mất thông tin sao? Ố, cái này cũng từa tựa như interleaving nhiều lần ấy
mà, việc interleaving không làm giảm đi số lỗi mà chỉ san nó ra thôi và cứ
interleave mãi thì sẽ đến lúc các lỗi sẽ phải cụm lại chứ lỗi còn chạy đi lên
mây được sao? Hô hô, có cả tỷ ví dụ như thế nhé.